Sở dĩ có chuyên gia kinh tế bắt đầu đặt vấn đề như vậy vì liên tục nhiều năm qua, Việt Nam luôn duy trì thặng dư thương mại trong hoạt động ngoại thương ngay cả trong những năm diễn ra đại dịch Covid-19. Từ một quốc gia nhập siêu, Việt Nam đã “lật ngược” tình thế, trở thành nước xuất siêu với kim ngạch hàng chục tỷ USD.
Sở dĩ có chuyên gia kinh tế bắt đầu đặt vấn đề như vậy vì liên tục nhiều năm qua, Việt Nam luôn duy trì thặng dư thương mại trong hoạt động ngoại thương ngay cả trong những năm diễn ra đại dịch Covid-19. Từ một quốc gia nhập siêu, Việt Nam đã “lật ngược” tình thế, trở thành nước xuất siêu với kim ngạch hàng chục tỷ USD.
Nhận thức được tầm quan trọng của ngành logistic, thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ngành dịch vụ logistics.
Hạ tầng logistics phát triển nhanh với nhiều công trình lớn, hiện đại, thúc đẩy cơ cấu hợp lý, kết nối hài hoà các phương thức vận tải, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đặc biệt trong đó, hạ tầng đường bộ có nhiều đột phá, hệ thống đường cao tốc đã đạt trên 2.000 km. Việt Nam cũng đang quyết tâm xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, kết nối đường sắt với Lào, Trung Quốc.
Hệ thống sân bay phát triển tương đối tốt. Năng lực đường thủy nội địa được nâng cao với 298 cảng nội địa; hình thành các cảng biển cửa ngõ, bến chuyên dùng gắn với khu công nghiệp trung tâm công nghiệp (có 286 bến cảng, 95 km cầu cảng, 25 tuyến quốc tế…); hoàn thiện khu xử lý hàng hóa riêng biệt tại các cảng hàng không; đẩy mạnh đầu tư các trung tâm logistics (hiện có 69 trung tâm lớn và vừa), chuyển mạnh sang trung tâm thế hệ mới ứng dụng công nghệ 4.0…
Tuy nhiên, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cũng nhận định bên cạnh những kết quả đạt được, ngành dịch vụ logistics Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; chi phí logistics còn cao, năng lực cạnh tranh thấp; sự thiếu hụt về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và thiếu tính kết nối về hạ tầng là những “điểm nghẽn” lớn, kìm hãm sự phát triển của dịch vụ logistics thời gian qua.
Bên cạnh đó, quy mô của ngành so với quy mô GDP Việt Nam và quy mô ngành logistics toàn cầu (lên tới 9.000 tỷ USD) còn hạn chế. Nguồn nhân lực còn yếu và thiếu; doanh nghiệp phát triển chưa mạnh do chưa có cơ chế để phát triển; mối liên kết giữa các phương thức vận tải với kho bãi còn hạn chế; hạ tầng logistics còn lạc hậu.
Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, tham gia tích cực vào các hiệp định thương mại tự do và với lợi thế địa kinh tế, việc nghiên cứu, đề xuất triển khai xây dựng, thành lập và phát triển mô hình các khu thương mại tự do nên được thực hiện sớm để tận dụng thời cơ.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, Việt Nam vẫn chưa có khu thương mại tự do. Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, thời gian qua, Việt Nam cũng đã quan tâm và tích cực nghiên cứu về các khu thương mại tự do trên thế giới.
Mới đây, Đà Nẵng đã được Quốc hội thông qua cơ chế thí điểm thành lập khu thương mại tự do để thực hiện, là cơ sở để nghiên cứu, xây dựng chính sách mới, làm tiền đề để luật hóa các quy định về khu thương mại tự do cho cả nước.
Đến dự và chỉ đạo Diễn đàn, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nêu rõ, thời gian tới, với xu thế hội nhập, phát triển ngành logistics phải đi theo các xu thế mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tri thức.
Thủ tướng cũng chỉ ra 3 mục tiêu phát triển ngành logistics thời gian tới, góp phần phục vụ mục tiêu lớn phát triển đất nước: một là giảm chi phí logistics so với GDP Việt Nam từ 18% xuống còn 15% trong năm 2025; hai là nâng tỷ trọng ngành logistics Việt Nam trong quy mô GDP từ 10% lên 15% và phấn đấu đạt 20%; đồng thời nâng tỷ trọng của ngành logistics Việt Nam so với quy mô ngành logistics toàn cầu từ 0,4% lên 0,5% và phấn đấu đạt 0,6%; ba là nâng tốc độ tăng trưởng của ngành logistics Việt Nam từ 14-15% mỗi năm hiện nay lên 20%.
Đồng thời, người đứng đầu Chính phủ cũng đưa ra 7 giải pháp phát triển ngành logistics, và coi đây là 7 đột phá để thực hiện 3 mục tiêu đã đề ra, góp phần đưa tăng trưởng kinh tế đạt mức 2 con số mỗi năm trong những năm tới.
Thứ nhất, nâng cao hơn nữa nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của ngành logistics và vị trí Việt Nam ở trung tâm khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Thứ hai, tạo đột phá thể chế theo hướng thông thoáng để phát triển ngành xứng tầm.
Thứ ba, xây dựng hạ tầng logistics hiện đại, thông suốt để giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, đặc biệt là phát triển ngành hàng không, hàng hải và đường sắt tốc độ cao.
Thứ tư, xây dựng quản trị thông minh và đào tạo nhân lực chất lượng cao cho ngành logistics.
Thứ năm, đẩy mạnh hội nhập, ngoại giao logistics và hiện đại hóa ngành logistics nội địa.
Thứ sáu, xây dựng và phát triển quốc gia thương mại tự do.
Thứ bảy, kết nối chặt chẽ giữa các phương thức giao thông và kết nối với giao thông quốc tế, với các khu thương mại tự do của thế giới.
Thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương chủ trì, cùng các bộ, ngành xây dựng chiến lược phát triển ngành logistics, đề án phát triển quốc gia thương mại tự do, phát triển các khu thương mại tự do ở biên giới, phối hợp với các địa phương để chủ động triển khai.
Diễn đàn Logistics Việt Nam 2024 (VLF 2024) do Bộ Công Thương phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức với chủ đề “Khu thương mại tự do - giải pháp đột phá thúc đẩy tăng trưởng logistics” sẽ diễn ra từ ngày 01 – 02/12/2024 tại Khách sạn The Grand Hồ Tràm (xã Phước Thuận, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).
Là người gắn bó với ngành Điện Việt Nam qua công tác giảng dạy cũng như tham gia hoạt động quản lý, Giáo sư đánh giá thế nào những thành tựu đã đạt được của ngành Điện những năm qua?
Với nhiệm vụ cung cấp đủ điện cho đất nước, những năm qua, ngành Điện Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc với nhiều thành tựu đáng tự hào.
Từ chỗ nguồn và lưới điện không đáng kể, nghèo nàn lạc hậu từ năm 1954, đến nay nước ta đã có một hệ thống điện vững chắc với tổng công suất nguồn đạt hơn 38.800 MW, lưới điện quốc gia đã phủ kín khắp cả nước với trên 6.000 km đường dây 500 kV, 30.000 km đường dây từ 110 kV-220 kV và hàng trăm nghìn km lưới phân phối các loại. Sản lượng điện sản xuất hàng năm đạt trên 150 tỷ kWh, điện thương phẩm năm 2015 đạt 143,34 tỷ kWh. Sản lượng điện bình quân đầu người cả nước đạt hơn 1.400 kWh/năm.
Cùng với đó ngành Điện đã thực hiện thành công chương trình điện khí hóa nông thôn, kéo và cấp điện cho các vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo. Tính đến năm 2015, đã có gần 100% số xã, trên 98% số hộ dân được sử dụng điện. Ngành Điện dù còn nhiều khen, chê nhưng đây là điều không ai có thể phủ nhận được.
Nhiều năm qua, Ngành Điện đã nỗ lực thực hiện chương trình điện khí hóa nông thôn
Trong những năm qua, ngành Điện cũng không ngừng đổi mới, tiếp cận khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ thông tin nhằm nâng cao năng lực quản lý, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khách hàng. Xây dựng và hoàn thành các nhà máy thủy điện lớn để phát điện; đưa công nghệ tuabin khí tiên tiến vào xây dựng, quản lý và vận hành có hiệu quả các nhà máy nhiệt điện. Trong công nghệ truyền tải điện đã xây dựng đường dây siêu cao áp 500 kV từ Bắc vào Nam, hợp nhất 3 hệ thống điện trước đây hoạt động riêng lẻ thành hệ thống điện quốc gia, điều hành thống nhất. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có tỷ lệ điện khí hóa nông thôn cao nhất thế giới; thời gian tiếp cận điện năng không ngừng được cải thiện, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Một thành tựu khác, có thể nói thêm là trong quản lý, ngành Điện đã chuyển từ độc quyền, chịu nhiều phàn nàn của xã hội sang cơ chế thị trường với nhiều chỉ tiêu dịch vụ ngày càng tốt hơn.
Theo Giáo sư, thời gian nào là điểm nhấn sự phát triển vượt bậc của ngành Điện?
Năm 1994 đánh dấu sự trưởng thành của ngành Điện Việt Nam thông qua việc hoàn thành xây dựng đường dây siêu cao áp 500 kV sử dụng công nghệ truyền tải tiên tiến bậc nhất lúc bấy giờ; rồi việc thành lập Tổng công ty Điện lực, Trung tâm điều độ hệ thống điện quốc gia. Sau đó là hàng loạt các công trình điện ở tất cả các miền được xây dựng và đưa vào phát điện.
Giai đoạn 1954 đến những năm 1990, do chiến tranh và giải quyết hậu quả chiến tranh nên nguồn điện luôn thiếu, chất lượng không ổn định. Vào năm 90, tổng công suất của cả nước chỉ đạt khoảng 1.800 MW, sản lượng điện khoảng 8-10 tỷ kWh. Điện dùng khoán, không có công tơ nhưng tình trạng mất điện xảy ra thường xuyên, chất lượng điện chập chờn, có khi chỉ dùng để thắp sáng sinh hoạt.
Việc đưa vào vận hành đường dây 500kV Bắc - Nam không chỉ đóng vai trò liên kết lưới điện các miền, đấu nối các nhà máy điện vào hệ thống, giải quyết căn bản tình trạng thiếu điện của miền Nam và miền Trung, mà còn trở thành tiền đề cho sự phát triển vượt bậc của hệ thống điện ngày nay.
Ngành Điện có đóng góp như thế nào trong sự phát triển của ngành Công Thương và kinh tế đất nước, thưa Giáo sư?
Muốn phát triển kinh tế đất nước thì điện phải đi trước một bước. Các dự án điện không chỉ tạo ra nhiều lợi ích kinh tế - xã hội cho địa phương như gia tăng giá trị công nghiệp, tạo việc làm, an sinh xã hội, nguồn thu ngân sách, tạo môi trường thu hút đầu tư... đồng thời còn góp phần thúc đẩy các ngành sản xuất khác từ công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp đến thương mại, dịch vụ... Ví dụ như khi đưa vào vận hành đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1, tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm của toàn quốc từ 5-6% giai đoạn 1990-1992 lên hơn 18% giai đoạn 1993-1997, trong đó khu vực miền Trung và miền Nam là 21%. Nhờ đó tốc độ tăng trưởng sản lượng công nghiệp bình quân đạt 12-14% trong giai đoạn 1990-1995, vượt các chỉ tiêu Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã đề ra.
Cứ nhìn vào thành tựu của ngành Công Thương, của đất nước trong những năm qua thì sẽ thấy đóng góp của ngành Điện. Từ chỗ không đáng kể đến nay ngành Điện đã có dự phòng, cung cấp đủ cho nhu cầu phụ tải với chất lượng, dịch vụ không ngừng tăng lên,góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thu hút đầu tư; giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng miền; thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.