Để phục vụ cho việc hoàn thiện Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, sáng ngày 10 tháng 11 năm 2020, tại Hà Nội, Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam tổ chức hộ...
Để phục vụ cho việc hoàn thiện Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, sáng ngày 10 tháng 11 năm 2020, tại Hà Nội, Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam tổ chức hộ...
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Trần Duy Đông, Cục trưởng Cục xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), cho rằng sau 7 năm triển khai Quyết định 200 (Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025), ngành logistics nói chung và năng lực hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics của các doanh nghiệp ở nước ta nói riêng đã có những bước tiến đáng kể.
Ngành dịch vụ logistics đóng góp tích cực vào các hoạt động kinh tế, trước hết là xuất nhập khẩu và sản xuất, lưu thông phân phối trong nước. Mặc dù chi phí logistics của Việt Nam vẫn còn khá cao so với các nước phát triển trên thế giới, nhưng những năm qua ngành dịch vụ logistics đã có những đóng góp không nhỏ trong hoạt động xuất nhập khẩu, đưa hoạt động xuất nhập khẩu thành một điểm sáng bởi tốc độ tăng trưởng vượt bậc so với giai đoạn trước. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam từ mức 428,1 tỷ USD năm 2017 lên 681,1 tỷ USD năm 2023 với tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 8,4%/năm cho cả giai đoạn 2017 - 2023.
Việt Nam hiện có hơn 34.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics. Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) của Việt Nam năm 2023 xếp thứ 43/139 nước và vùng lãnh thổ tham gia nghiên cứu, tăng 21 bậc so với năm 2016.
Việt Nam cũng là nước xếp hạng ở tốp đầu trong các thị trường mới nổi, tốc độ phát triển của ngành logistics ở Việt Nam những năm gần đây đạt khoảng 14-16%, quy mô khoảng 40-42 tỷ USD/năm.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ông Đông thẳng thắn chỉ rõ, hoạt động phát triển logistics quốc gia vẫn còn một số tồn tại, hạn chế.
Thứ nhất, mặc dù Chính phủ cùng các Bộ, ngành đã rất nỗ lực trong việc tiếp tục xây dựng khung khổ pháp lý, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng lành mạnh cho hoạt động logistics ở Việt Nam nhưng khi triển khai thực tiễn, các cơ quan quản lý cấp Sở, ngành, địa phương và các doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, chủ yếu là do một số các quy định vẫn còn chồng chéo chưa phù hợp.
Thứ hai, công tác phối hợp nghiên cứu, triển khai xây dựng quy hoạch của các Bộ, ngành, địa phương chưa thực sự phát huy hiệu quả, hiệu lực. Một số tỉnh, thành phố có tiềm năng nhưng cơ sở hạ tầng thương mại, hạ tầng giao thông chưa được đầu tư tương xứng nên các hoạt động dịch vụ logistics nhìn chung chưa phát triển được.
Thứ ba, điểm yếu của các doanh nghiệp logistics Việt Nam là chi phí dịch vụ còn cao, chất lượng cung cấp một số dịch vụ còn chưa đáp ứng được các thị trường khó tính.
Nguyên nhân chính theo lãnh đạo Cục xuất nhập khẩu là do hạn chế về quy mô doanh nghiệp, về vốn, kinh nghiệm và trình độ quản lý, khả năng áp dụng công nghệ thông tin cũng như trình độ nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu hoạt động quốc tế. Bên cạnh đó, là hạn chế về kết cấu hạ tầng logistics và chi phí vận tải trên đường bộ, phụ phí cảng biển do các chủ tàu nước ngoài áp đặt.
Thứ tư, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số tại doanh nghiệp dịch vụ logistics còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ lớn các ứng dụng công nghệ thông tin hiện đang được sử dụng tại các doanh nghiệp dịch vụ logistics là các ứng dụng cơ bản với những chức năng riêng biệt như quản lý giao nhận, kho bãi, trao đổi dữ liệu điện tử, quản lý vận tải hay khai báo hải quan...
Nguyên nhân chính là khó khăn về tài chính do chi phí để đầu tư chuyển đổi số lớn trong khi phần lớn các doạnh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ với số vốn hạn chế. Hơn nữa, nhận thức, trình độ, thói quen của cả lãnh đạo và nhân viên, cùng với việc lựa chọn công nghệ thích hợp cũng là một rào cản.
Thứ năm, hoạt động triển khai, điều phối các nhiệm vụ phát triển logistics quốc gia còn gặp nhiều khó khăn do đặc thù ngành dịch vụ logistics bao gồm nhiều lĩnh vực thuộc sự quản lý của nhiều Bộ, ngành khác nhau. Cơ chế phối hợp, thông tin giữa các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp còn chậm trễ. Bộ máy tổ chức và cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý nhà nước về dịch vụ logistics còn thiếu, chủ yếu kiêm nhiệm nên hiệu quả chưa cao.
Để khắc phục những bất cập trên, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã nghiên cứu và xây dựng Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo ông Trần Thanh Hải, Phó cục trưởng Cục xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), Dự thảo Chiến lược đặt mục tiêu phát triển ngành dịch vụ logistics Việt Nam bền vững, hiệu quả, chất lượng và có giá trị gia tăng cao, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và thế giới, phát huy lợi thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Mục tiêu năm 2030 tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 6-8%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 60 - 70%; chi phí logistics giảm xuống tương đương 16 - 18% GDP; xếp hạng theo chỉ số LPI trên thế giới đạt thứ 45 trở lên.
Đến năm 2050, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 12 - 15%; tỷ lệ thuê ngoài đạt 70-90%; chi phí logistics giảm xuống tương đương 10-12%; xếp hạng theo chỉ số LPI trên thế giới đạt thứ 30 trở lên.
Các nhóm nhiệm vụ lớn được nêu ra tại chiến lược bao gồm: Hoàn thiện thể chế pháp luật, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ logistics; đổi mới quy hoạch, đẩy mạnh đầu tư xây dựng hạ tầng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam theo hướng đồng bộ, hiện đại; phát triển thị trường dịch vụ logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong lĩnh vực dịch vụ logistics; đào tạo nguồn nhân lực dịch vụ logistics chất lượng cao và phong cách cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp; nâng cao vai trò của các hiệp hội trong lĩnh vực logistics và các doanh nghiệp hạt nhân…
Dự thảo cũng đưa ra các giải pháp thực hiện chiến lược: hoàn thiện thể chế pháp luật cho hoạt động logistics; đẩy mạnh đầu tư xây dựng hạ tầng phát triển dịch vụ logistics; củng cố nội lực của doanh nghiệp; đào tạo nguồn nhân lực logistics chất lượng cao…
Tại hội thảo, ông Đông kỳ vọng nhận được các ý kiến đóng góp từ các chuyên gia, hiệp hội, sở ban ngành liên quan cho Dự thảo, cũng như đề xuất những giải pháp thiết thực. “Với tinh thần cầu thị, Bộ Công Thương sẽ nghiêm túc xem xét, tiếp thu các ý kiến góp ý dưới nhiều hình thức để Chiến lược thể hiện đúng tầm vóc của một ngành kinh tế quan trọng, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp logistics nâng cao năng lực cạnh tranh”, ông Đông nhấn mạnh.
%PDF-1.4
%âãÏÓ
1 0 obj
<>/TrimBox[0 0 544.252 779.528]>>
endobj
16 0 obj
<>stream
H‰ÔWK�ǾóWôq(ì¶ûý0òZÖÊÑJ²vlv} ¸�¡£å®eRŠÿ�“?`û&É7#BÊ%·T§çÑ5’:‰
‰Éùú«ª¯ª¾þnÄÉŒŒ´RThA¬õTGöãûñ“ç#V}5zJæ#Fg¦zˆ;²zFVÏðò™ð»�îrùýèÓ|ôQžÂI~1âœ0ø^”3T î‰4T{ß^ÁQ—ð'Ÿ†¿^�2Îä8ÿvt7‡ßƒ?_À“ßF5yE8#GääFÎÂA2@N+,eZYÍ,ULÔŸ
Không chỉ là nơi quy tụ nhiều khu công nghiệp, thị xã Thuận An - Bình Dương còn là mảnh đất trù phú với nhiều loại cây trái đặc thù miền Đông Nam bộ. Riêng măng cụt Lái Thiêu đã trở thành một thương hiệu được biết đến trong và ngoài nước. Hiện tại, người dân vùng này rất tự tin khi măng cụt xuất khẩu chính ngạch vào thị trường Trung Quốc!
Được bồi đắp phù sa của sông Sài Gòn, cộng với hệ thống thủy lợi được đầu tư bài bản, người làm vườn tại Thuận An rất tự hào về những sản phẩm trồng trọt của họ, nhất là trái măng cụt được mệnh danh “nữ hoàng” trong vương quốc trái cây.
Tháng 8/2013, Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ đã chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể “Măng cụt Lái Thiêu” với thời gian sở hữu thương hiệu 10 năm. Để gìn giữ và phát triển thương hiệu “Măng cụt Lái Thiêu”, UBND tỉnh Bình Dương cũng đã có Quyết định 63/2016/QĐ-UBND ban hành một số chính sách hỗ trợ vườn cây đặc sản tỉnh Bình Dương giai đoạn 2017-2021. Vì vậy, việc mở rộng thị trường quốc tế cho măng cụt Lái Thiêu hoàn toàn thuận lợi.
Hội Nông dân thị xã Thuận An là đơn vị có quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể “Măng cụt Lái Thiêu” cho biết, chỉ những loại măng cụt đạt yêu cầu chất lượng, được trồng và thu hoạch tại thị xã Thuận An mới được phép sử dụng nhãn hiệu “Măng cụt Lái Thiêu” để dán lên sản phẩm.
Gọi là măng cụt Lái Thiêu, nhưng loại trái cây này không chỉ được trồng trên diện tích nhỏ hẹp của phường Lái Thiêu đang thịnh vượng mua bán như một khu vực trung tâm của thị xã Thuận An. Măng cụt Lái Thiêu được trồng nhiều nhất tại xã An Sơn và rải rác ở các phường Bình Nhâm, Cầu Ngang, Hưng Định, An Thạnh…
Một thách thức mà măng cụt Lái Thiêu đang phải đối mặt là tốc độ đô thị hóa. Nằm giữa TP.HCM và thành phố Thủ Dầu Một, giá đất ở Thuận An tăng vọt theo nhu cầu giãn dân. Dù không đắt đỏ như giá đất ở phường Lái Thiêu, nhưng giá đất ở các phường khác cũng đầy… khiêu khích cho mơ ước rời bỏ ruộng vườn để làm giàu nhanh chóng của nhiều người.
Chủ vườn măng cụt Trần Tuấn Long năm nay gần 50 tuổi ở phường An Thạnh chia sẻ: “Nhà tôi có 2.000 mét vuông do tổ tiên để lại, ngoài diện tích đang sử dụng sinh hoạt và trồng ít rau củ thì có 63 gốc măng cụt. Mỗi mùa măng cụt, gia đình tôi tự thu hái, cũng chỉ kiếm được 40 triệu đồng. Nhiều tay môi giới địa ốc đến trả giá 15 triệu/m2 đất. Nếu tôi bán đi, đem tiền gửi ngân hàng thì không phải lo cái ăn cái mặc nữa. Thế nhưng, tôi vẫn đi làm công nhân để có thu nhập thường xuyên mưu sinh. Tôi không nỡ bỏ vườn cây, vì có gốc măng cụt do ông nội của tôi trồng từ 80 năm trước, cũng có gốc măng cụt do cha của tôi trồng từ khi tôi còn chập chững tập đi. Tôi cũng thèm được cầm tiền tỷ trong tay lắm chứ, nhưng chuyển nhượng vườn măng cụt cho người ta phân lô bán nền thì tôi có lỗi với cha ông mình!”.
Chính nhờ nhiều người xem măng cụt không chỉ là một loại trái cây độc đáo mà còn là một di sản của tiền nhân, nên toàn thị xã Thuận An vẫn đang có 650ha trồng măng cụt. Mỗi năm, măng cụt cho trái một lần.
Tháng 11 âm lịch, măng cụt ra hoa và 5 tháng sau thì chín rộ khắp vườn. Trung bình, mỗi ha măng cụt thu được 2,9 tấn trái. Tuy nhiên, giá bán măng cụt lại dao động khác nhau, phụ thuộc vào mức độ trái chín mà nhà vườn thu hái. Mùa măng cụt 2019 vừa qua, đầu vụ giá 80 ngàn đồng/kg, giữa vụ 40 ngàn đồng/kg, cuối vụ lại lên 110 ngàn đồng/kg. Dù vậy, giá măng cụt Lái Thiêu vẫn cao nhất so với măng cụt từ những vùng khác!
Ở xã An Sơn, nơi tập trung nhiều chủ vườn măng cụt nhất của thị xã Thuận An, bà Út Nhiều là một nhân vật hầu như người nào quan tâm đến loại trái cây này cũng biết mặt, biết tên.
Bà Út Nhiều là dân Hóc Môn - TP.HCM về đây làm dâu từ nửa thế kỷ trước. Bằng kinh nghiệm của người trực tiếp trồng trọt cộng với tư duy nhạy bén của người kinh doanh, bà Út Nhiều mở đại lý thu mua măng cụt rất uy tín. Mỗi mùa măng cụt cho trái chín, kéo dài khoảng 1,5 tháng.
Mỗi ngày, bà Út Nhiều thu mua trên 2 tấn măng cụt. Về triển vọng măng cụt Lái Thiêu xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc, bà Út Nhiều tự tin: “Nếu được hỗ trợ tiếp tục về kỹ thuật sau thu hoạch, thì măng cụt Lái Thiêu có thể ra khỏi biên giới một cách ngon lành”.
Ông Lê Hồng Minh - Giám đốc công ty trái cây Navifood nhận định: “Đưa măng cụt Lái Thiêu vào thị trường chính ngạch Trung Quốc cũng là một cơ hội cho các chủ vườn trên địa bàn thị xã Thuận An. Giá xuất khẩu dĩ nhiên sẽ cao hơn giá trong nước, đồng thời cũng giúp chủ vườn không bị ép giá vào giữa vụ măng cụt chín rộ. Tuy nhiên, để có số lượng lớn phục vụ xuất khẩu thì phải có kế hoạch cụ thể để hợp tác đặt hàng với các chủ vườn!”